LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
TỈNH LÂM ĐỒNG
Số 2A Trần Hưng Đạo - Phường 3 - Thành phố Đà Lạt - Điện thoai: 0263.3533247 - Email: lienhiephoilamdong@gmail.com

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH LÂM ĐỒNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Danh mục: Tư vấn phản biện Ngày đăng: 07 tháng 12 năm 2022

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH LÂM ĐỒNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

 

                                        ThS. Phạm Hồng Hải Th.S Dương Thị Hậu

Giảng viên Trường Đại học Đà Lạt

 

Tóm tắt: Ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức đã trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Vì vậy, ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay công tác phát huy vai trò của đội ngũ trí thức luôn là vấn đề mang tính cấp thiết đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta nói chung cũng như các cấp ủy Đảng, chính quyền thuộc các tỉnh, thành phố nói riêng, trong đó có tỉnh Lâm Đồng. Bài viết góp phần làm rõ những thuận lợi cũng như những khó khăn trong công tác phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại, nhóm tác giả đề xuất một số những giải pháp góp phần phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức của tỉnh Lâm Đồng hiện nay.

1. Khái niệm đội ngũ trí thức, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức và đặc điểm của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng

 

1.1. Khái niệm đội ngũ trí thức

Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng La tinh: Intelligentia nghĩa là thông minh, có trí tuệ, hiểu biết.

Trên thế giới, khi đề cập khái niệm về “trí thức”, Đại từ điển Bách khoa Liên Xô (1985) định nghĩa: “Trí thức là tầng lớp những người làm nghề lao động phức tạp chủ yếu là lao động phức tạp, sáng tạo, phát triển và phổ biến văn hóa”. Quan điểm của Lênin cho rằng: “Tôi dùng chữ trí thức, giới trí thức, để dịch những danh từ Đức Literat, Literatentum là những danh từ có nghĩa bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc (Tức là những người mà người Anh gọi là Brain worker), khác với những đại biểu của lao động chân tay” [6, tr.372].

Ở Việt Nam, một số từ điển cũng đã cung cấp những khái niệm trí thức. Theo đó, trí thức được hiểu là: “một nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề lao động phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó” [2, tr.360], hay trí thức là “tập đoàn xã hội gồm những người làm nghề lao động phức tạp. Giới trí thức bao gồm: kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo, người làm công tác khoa học và một bộ phận lớn viên chức” [3, tr.598].

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra một số những luận điểm về trí thức, qua đó cho thấy đầy đủ diện mạo về trí thức theo như quan niệm của Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết tháng 10 năm 1947, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa: “Trí thức là gì? Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là sự hiểu biết đấu tranh dân tộc và xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác” [1, tr.235]. Như vậy, với Hồ Chí Minh, trí thức gắn liền với tri thức, phẩm chất quan trọng nhất của của người trí thức đó là hiểu biết tức là phải có tri thức. Hồ Chí Minh chia ra làm hai loại tri thức: tri thức khoa học tự nhiên và tri thức khoa học xã hội. Và yêu cầu, người trí thức phải nắm vững những tri thức trong lĩnh vực mà mình nghiên cứu. Ngoài ra, thông qua cách phân loại tri thức như trên, có thể chia trí thức thành hai nhóm lớn là, trí thức trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và trí thức trong lĩnh vực khoa học xã hội. Đây là cách phân loại rất gần gũi với quan niệm hiện đại đang được sử dụng phổ biến ngày nay.

Tóm lại, trên cơ sở quan quan điểm của C.Mác, Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và những khái niệm nêu trên, có thể khái quát khái niệm về Trí thức và đội ngũ trí thức (ĐNTT):

 Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu, có đạo đức, lao động trí tuệ - sáng tạo khoa học, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học, trong hoạt động thực tiễn, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.

Đội ngũ trí thức là đội ngũ những người làm các nghề lao động phức tạp, đòi hỏi có học vấn và chuyên môn sâu cho ngành lao động đó, giữ vai trò chủ đạo trong việc sáng tạo tri thức, phổ biến giáo dục tri thức và ứng dụng tri thức khoa học vào phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội. Đội ngũ trí thức là một tầng lớp xã hội có quan hệ mật thiết với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác.

Như vậy, ĐNTT trước hết là tập hợp đông đảo những người trí thức làm việc trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm: Khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, văn hóa nghệ thuật, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, hệ thống các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp và các hội trí thức…

ĐNTT cũng là một tầng lớp xã hội có quan hệ mật thiết với các giai cấp và tầng lớp khác. Như Lênin đã khẳng định: Nếu không nhập cuộc với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi. Ngày nay, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và với trình độ dân trí ngày càng cao đã và đang rút ngắn dần khoảng cách giữa lao động chân tay với lao động phức tạp nói chung. Trong bối cảnh đó, diễn ra sự xích lại gần nhau giữa giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức với việc xuất hiện các nhóm trí thức công nhân.

1.2. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức

 Đánh giá vai trò của ĐNTT, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X nhận định: Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Bởi vậy, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định.        

Trước hết là các cấp ủy Đảng từ trung ương đến cơ sở, luôn xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên. Có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra việc thể chế hóa các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết thành các chính sách, chế độ, chế tài, quy chế cụ thể để thực hiện thắng lợi Nghị quyết. Các ban của Ðảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy tổ chức nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân; có chương trình hành động cụ thể đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ có nhiệm vụ rà soát hệ thống luật pháp và các văn bản liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới phù hợp với Nghị quyết.

Nhà nước phát huy vai trò của ĐNTT thông qua công tác cán bộ. Đòi hỏi cần phải công khai, minh bạch trong tất cả các khâu đánh giá, sử dụng, phát hiện, tuyển chọn, trọng dụng nhân tài. Thông qua đối thoại trực tiếp với đội ngũ trí thức để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ, thông qua đó để điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Đồng thời thể chế hóa những nghị quyết của Đảng về công tác trí thức thành các văn bản pháp luật và các chính sách trọng dụng và tôn vinh, đãi ngỗ với trí thức.

Các đoàn thể xã hội và đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tập hợp những những trí thức khoa học và công nghệ, tạo môi trường dân chủ cho trí thức làm việc, giới thiệu những trí thức tiêu biểu tham gia trong các vị trí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.

Tóm lại, thời đại ngày nay, khi mà khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng thì vai trò của đội ngũ trí thức càng trở nên to lớn và quan trọng hơn. Đối với Việt Nam để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức cần quán triệt ba vấn đề: tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với ĐNTT; công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng ĐNTT; trọng dụng đãi ngộ và tôn vinh trí thức.

1.3. Đặc điểm của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng

1.3.1. Những yếu tố tác động đến việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng

Những yếu tố về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Lâm Đồng là một tỉnh miền núi Nam Tây Nguyên, nằm sâu trong nội địa không có đường biên giới và không có bờ biển. Tỉnh có địa hình, địa chất phức tạp, nằm trải dài trên 3 cao nguyên là cao nguyên Lâm Viên, cao nguyên Dran và cao nguyên Di Linh. Với vị trí và điều kiện tự nhiên như trên nên hệ thống giao thông đường bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc lưu thông hàng hóa, hành khách và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương. Các tuyến quốc lộ 20, 27, 28 nối liền Lâm Đồng với vùng Đông Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ; tạo cho Lâm Đồng có mối quan hệ kinh tế - xã hội bền chặt với các vùng, các tỉnh trong khu vực và tạo ra những cơ hội để trí thức Lâm Đồng tiếp cận những tri thức mới, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời tập hợp và phát huy đội ngũ trí thức là người Lâm Đồng đang công tác ở ngoài tỉnh tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Những yếu tố về kinh kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh

Do điều kiện đặc thù về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nên kinh tế Lâm Đồng có thế mạnh và phát triển chủ yếu về du lịch, nông lâm nghiệp và công nghiệp khai thác, chế biến nông, lâm khoáng sản.

Trong những năm qua, cùng với sự phát của nền kinh tế của đất nước, kinh tế Lâm Đồng có sự đổi thay và không ngừng phát triển. Về nông nghiệp, toàn tỉnh có khoảng 309.102 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp. Cùng với khí hậu hài hòa, đất đai Lâm Đồng rất thích hợp để phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như: chè, cà phê, dâu tằm, điều, hoa, rau… Đến nay Lâm Đồng đã hình thành nhiều vùng chuyên canh tập trung, là thị trường tiềm năng về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Nông sản là mặt hàng có thế mạnh và là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Lâm Đồng, chiếm gần 85% kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh như: chè, cà phê, rau hoa, hạt điều, tơ tằm, rượu vang… Tuy vậy, do những điều kiện khó khăn nhất định nên chưa khai thác hết tiềm năng xuất khẩu.

Bên cạnh thế mạnh phát triển nông nghiệp, từ lâu Đà Lạt – Thành phố tỉnh lỵ của Lâm Đồng đã nổi tiếng là một trung tâm du lịch, là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng. Tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng đóng vai trò quan trọng đối với cảnh quan du lịch, đặc biệt là rừng thông Đà Lạt. Cùng với sông suối, hồ đập, thác nước…, rừng Lâm Đồng đã tạo nên một quần thể có sức thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng hiện có 610 cơ sở lưu trú du lịch (trong đó có trên 80 khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 1- 5 sao). Hiện Đà Lạt - Lâm Đồng có 34 khu điểm tham quan du lịch, trong đó có hơn 20 đơn vị kinh doanh lữ hành, 3 đơn vị lữ hành, vận chuyển quốc tế đã trở nên quen thuộc với du khách trong và ngoài nước. Các loại hình du lịch tại Đà Lạt - Lâm Đồng khá phong phú, đa dạng như du lịch lữ hành  tham quan, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch văn hoá, du lịch thể thao, du lịch sinh thái và phát triển các loại hình thương mại dịch vụ như: Nhà hàng, khách sạn, khu du lịch đầy tiềm năng hứa hẹn đầu tư. Hiện nay tỉnh đã thu hút được một số nhà đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, siêu thị và có một trung tâm thương mại đã đi vào hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Lạt. Với các lợi thế so sánh và chủ trương thu hút đầu tư khá hấp dẫn, Lâm Đồng đã và đang trở thành địa chỉ tin cậy, điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Lâm Đồng có nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực của tỉnh và Trung ương đóng trên địa bàn (2 trường Đại học, 6 trường Cao đẳng, 5 trường Trung cấp chuyên nghiệp và trên 50 cơ sở đào tạo nghề, 3 viện nghiên cứu khoa học); trong đó, có 2 đơn vị đào tạo sư phạm là Trường Đại học Đà Lạt và Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Giai đoạn 2008 -2018, Trường Đại học Đà Lạt đã đào tạo cho tỉnh Lâm Đồng 4673 cử nhân, 245 thạc sĩ [5, tr.2].

Lâm Đồng có lực lượng lao động dồi dào (dân số gần 1,3 triệu người với 43 dân tộc sinh sống), nhân dân các dân tộc Lâm Đồng có truyền thống yêu nước, hiếu học và cần cù trong lao động, năng động nhạy bén với cái mới, hoàn toàn có khả năng vươn lên tiếp nhận và thích ứng với cái mới, cái tiến bộ đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh nhà. Đây là nguồn lực và tiềm năng chủ yếu cần được thường xuyên bồi dưỡng. Bên cạnh đó cùng với sự lãnh đạo đúng đắn của tỉnh Đảng bộ, vai trò quản lý của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức phát triển và phát huy hết khả năng của mình phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương.

Những tiềm năng và lợi thế nói trên, tạo ra nhiều cơ hội đối với đội ngũ trí thức trong việc đóng góp trí tuệ, năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức tham gia xây dựng tỉnh Lâm Đồng giàu mạnh.

1.3.2. Đặc điểm về số lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng

Thứ nhất, Trong thời gian qua ĐNTT Lâm Đồng đã có sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng: Số lượng trí thức toàn tỉnh năm 2018 khoảng 57.300 người; tỷ lệ người có trình độ sau đại học trên số người có trình độ đại học năm 2018 đạt 6,2% cao hơn mục tiêu đề ra đến năm 2020 là từ 4,5 – 5% [4, tr.6].

Bộ phận trí thức là cán bộ, công chức, viên chức cũng gia tăng cả về số lượng và chất lượng: năm 2018 đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức toàn tỉnh có 32.000 người tăng 27,73% so với năm 2008: 25.052 người. Trong đó, người có trình độ thạc sỹ 744 người tăng 115,6%, người có trình độ đại học 15.174 tăng 94,93% so với năm 2008 [4, tr.10].

Với số lượng và chất lượng như trên cho thấy đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng mặc dù trong thời gian qua đã có sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng, tuy nhiên so với mặt bằng dân số, lực lượng trí thức Lâm Đồng vẫn còn chiếm tỉ lệ thấp, về chất lượng vẫn còn chưa cao so với các tỉnh khác trong cả nước dẫn đến việc chưa thể đáp ứng kịp thời với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Do đó, phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức trở thành yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết.

Thứ hai, cơ cấu đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức tập trung chủ yếu trong hai lĩnh vực là Giáo dục - đào tạo và ngành Y tế. Trong đó theo số lượng thống kê năm 2018, ngành Giáo dục và đào tạo: 24.000 người tăng 32,6% so với năm 2008 (Trong đó: Tiến sĩ: 07 người; Thạc sĩ: 519 người; Đại học: 11.063 người). Ngành Y tế: năm 2018 là 4.402 người tăng 47.63% so với năm 2008 (Trong đó: Tiến sĩ: 05 người; Thạc sĩ: 36 người; Chuyên khoa II: 46 người; Chuyên khoa I: 267 người; 4 dược sĩ chuyên khoa I; 69 sau đại học; 1.725 đại học, cao đẳng) [4, tr. 11]. Như vậy, lực lượng trí thức của tỉnh chủ yếu tập trung ở hai ngành mũi nhọn, đó cũng là những lĩnh vực đặc biệt cần thiết trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, chất lượng trí thức vẫn còn thấp, bởi vậy cần thiết phải xây dựng chiến lược quy hoạch, đào tạo nâng cao chất lượng của đội ngũ trí thức tỉnh nhà và có những chính sách nhằm phát huy tài năng và trí tuệ sáng tạo của họ để đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Thứ ba, trí thức là người Lâm Đồng đang công tác ở ngoài tỉnh có lực lượng khá đông đảo trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là đang công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bởi vậy, cần thiết phải xây dựng những chính sách đãi ngộ xứng đáng và tôn vinh trí thức để họ cống hiến, đem hết tài năng, trí tuệ xây dựng quê hương giàu mạnh.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa đội ngũ trí thức và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) ở tỉnh Lâm Đồng

2.1. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở Lâm Đồng là yếu tố quan trọng bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH

Thứ nhất, ĐNTT tỉnh Lâm Đồng đóng vai trò nòng cốt, đi đầu trong truyền bá và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH ở địa phương.

Thứ hai, ĐNTT tỉnh Lâm Đồng đi đầu trong việc đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ ba, Một bộ phận ĐNTT tỉnh Lâm Đồng tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý phát huy tốt vai trò trong việc tham mưu, hoạch định đường lối CNH, HĐH ở địa phương và tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tới người dân.

2.2. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải phát huy vai trò đi tiên phong của ĐNTT ở Lâm Đồng, đồng thời tạo môi trường, điều kiện để đội ngũ trí thức được phát huy vai trò của mình

2.2.1. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải phát huy vai trò đi tiên phong của ĐNTT ở Lâm Đồng

Thứ nhất, Đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Lâm Đồng đòi hỏi phải phát huy vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao - trong đó có ĐNTT, nhằm đáp ứng yêu cầu ứng dụng khoa học công nghệ cao vào nâng cao năng suất lao động.

Thứ hai, Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải phát huy vai trò của ĐNTT trong đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập cơ sở quan trọng để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Lâm Đồng.

Thứ ba, Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải phát huy vai trò đi đầu của ĐNTT tỉnh Lâm Đồng trong việc tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, vốn và tri thức kinh doanh, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để rút ngắn quá trình CNH, HĐH.

2.2.2. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo môi trường, điều kiện để phát huy vai trò của ĐNTT ở tỉnh Lâm Đồng

Thứ nhất, Đẩy mạnh CNH, HĐH góp phần phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, từ đó tạo ra điều kiện làm việc tốt nhất để phát huy được sở trường, năng lực sáng tạo của ĐNTT.

Thứ hai, Đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ nâng cao mức sống cho người dân, nhờ đó sẽ có chế độ đãi ngộ xứng đáng, tôn vinh trí thức, để họ yên tâm cống hiến làm công việc chuyên môn.

Thứ ba, Đẩy mạnh CNH, HĐH góp phần hình thành môi trường làm việc dân chủ, công khai, minh bạch khuyến khích mạnh mẽ khả năng sáng tạo của ĐNTT.

2.3. Thực trạng phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng hiện nay

2.3.1. Những kết quả đạt được trong công tác phát huy vai trò của ĐNTT

- Công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức:

Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể luôn xác định ĐNTT chính là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để trí thức của tỉnh được phát huy năng lực, cống hiến tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp phát triển chung của tỉnh.

Trong quản lý, sử dụng trí thức, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã có nhiều phương thức lãnh đạo, quản lý phù hợp, tạo môi trường thuận lợi để trí thức phát huy năng lực bản thân. Hoạt động đối thoại giữa trí thức và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền đã cởi mở, dân chủ hơn. Thông qua các hội nghị, hội thảo, diễn đàn, các vấn đề quan trọng của tỉnh được đưa ra thảo luận để tranh thủ ý kiến của các trí thức cốt cán, đầu ngành trước khi đưa ra quyết định. Đồng thời, tranh thủ sự đóng góp của đông đảo lực lượng trí thức đang công tác tại các cơ quan, ban, ngành cuả tỉnh đối với sự phát triển của địa phương; hình thành cơ chế tăng cường vai trò tư vấn, phản biện và giám định xã hội của ĐNTT trong việc hoạch định, đề ra những chủ trương về phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tỉnh ngày càng thể hiện rõ vai trò cầu nối tập hợp, đoàn kết ĐNTT, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh, sự gắn bó chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước với ĐNTT, thực hiện thắng lợi công cuộc CNH, HĐH của tỉnh.

- Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đội ngũ trí thức ngày càng được quan tâm:

Tỉnh Lâm Đồng đặc biệt quan tâm chỉ đạo, chăm lo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ trí thức trẻ là người đồng bào dân tộc thiểu số, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành công văn số 487/UBND ngày 22/01/2008 về việc bố trí việc làm cho học sinh, sinh viên người đồng bào dân tộc gốc Tây Nguyên; Quyết định số 2803/QĐ-UBND ngày 03/12/2010 về mức hỗ trợ cho cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh Lâm Đồng có hợp đồng lao động với học sinh, sinh viên dân tộc gốc Tây Nguyên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.

Thực hiện Quyết định số 804/QĐ –BNV ngày 23/3/2011 của Bộ Nội vụ; ngày 31/10/2011 Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 2450/QĐ –UBND phê duyệt danh sách 05 đoàn viên trí thức trẻ tăng cường về làm Phó Chủ tịch UBND các xã theo Dự án 600 thuộc huyện Đam Rông; Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 917/QĐ –UBND, ngày 16/5/2013 về việc phê duyệt danh sách trí thức trẻ là người dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên được cử đi đào tạo, bồi dưỡng để bố trí tăng cường về làm phó chủ tịch UBND xã thuộc tỉnh Lâm Đồng (43 trí thức trẻ).

- Tỉnh ủy tổ chức nhiều hoạt động trọng dụng đãi ngộ và tôn vinh trí thức:

Tỉnh uỷ đã xây dựng các quy định về đãi ngộ, khen thưởng đối với đội ngũ trí thức. Nhân các ngày lễ lớn trong năm có các hình thức khen thưởng đối với đội ngũ trí thức, tặng bằng khen, tặng kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp các hội khoa học và kỹ thuật” cho đội ngũ trí thức tiêu biểu của tỉnh. Hàng năm, Tỉnh ủy đều tổ chức gặp mặt trí thức tiêu biểu, nhằm tôn vinh, đề cao trách nhiệm của đội ngũ trí thức và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ trí thức cũng như nâng cao vai trò trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền đối với ĐNTT.

Ngày 23/5/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 25/QĐ – UBND về việc ban hành quy chế xét tặng giải thưởng khoa học và công nghệ tỉnh lần thứ nhất nhằm tôn vinh các nhà khoa học đã có những công trình, cụm công trình khoa học và công nghệ áp dụng vào sản xuất đời sống, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đã có 19 công trình, cụm công trình đủ điều kiện tham gia xét giải thưởng theo quy chế và thể lệ đã ban hành. Việc tổ chức trao giải thưởng và tôn vinh các nhà khoa học tạo ấn tượng sâu sắc trong đời sống tinh thần của ĐNTT.

2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại trong công tác phát huy vai trò của ĐNTT

- Đối với đội ngũ trí thức:

Lượng trí thức của tỉnh Lâm Đồng còn hạn chế về cả số lượng và chất lượng. Bên cạnh cạnh đó, còn một bộ phận cán bộ trí thức hạn chế về trình độ ngoại ngữ, tin học do vậy chưa có khả năng tiếp thu khoa học, công nghệ hiện đại; chưa đủ kinh nghiệm hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Đóng góp thực tế của đội ngũ trí thức còn chưa tương xứng với tiềm năng. Còn chưa thể hiện tốt vai trò của mình trên các hoạt động phản biện và giám định xã hội; tổng kết thực tiễn trong lãnh đạo, quản lý; trong tư vấn đề xuất chính sách, giải pháp để giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong phát triển kinh tế - xã hội; trong tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; số lượng đề tài khoa học được nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh còn ít, hàm lượng chất xám chưa cao.

- Về chủ trương, biện pháp phát huy vai trò đội ngũ trí thức của tỉnh:

Chưa có cơ chế chính sách cụ thể về tập hợp đội ngũ chuyên gia; tỷ lệ tập hợp đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ còn thấp. Việc tập hợp, phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn cao, là người Lâm Đồng đang công tác ở ngoài tỉnh có mặt còn hạn chế. Chưa tổ chức được nhiều hoạt động thiết thực để phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức tỉnh nhà.

Môi trường làm việc của trí thức chưa thực sự thuận lợi, còn nhiều hạn chế và khó khăn, chưa tạo lập được nhận thức chung của xã hội về sự tôn trọng, đánh giá công bằng, khách quan đối với trí thức. Còn thiếu các diễn đàn, trung tâm nghiên cứu hiện đại; điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, nơi làm việc còn thiếu thốn, dẫn tới chảy máu "chất xám".

Chế độ đãi ngộ đối với trí thức tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chính sách thu hút trí thức, thu hút người tài, bố trí, đề bạt vào các vị trí xứng đáng, tôn vinh, trọng thưởng những trí thức có thực tài, có cống hiến… đều chưa đạt được hiệu quả cao.

Nguyên nhân của những hạn chế

Cơ sở cho hoạt động nghiên cứu khoa học còn quá ít, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn; Việc áp dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất chưa mạnh, các đề tài, dự án khoa học và công nghệ chưa đặt trọng tâm vào hoàn thiện, chuẩn hóa các sản phẩm chủ lực, có thế mạnh.

Chưa xây dựng được các trung tâm nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ để tạo điều kiện cho các nhà khoa học tham gia thực hiện chủ trương xây dựng Đà Lạt, Lâm Đồng trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học hàng đầu của cả nước và vùng Tây nguyên.

Về chế độ chính sách: Chưa có những giải pháp đột phá, chế độ ưu tiên, đãi ngộ xứng đáng để thu hút nhân tài bố trí vào các vị trí xứng đáng; chưa phát huy được kết quả và nhân rộng các mô hình, sản phẩm có giá trị qua các hội thi sáng tạo kỹ thuật.

Một bộ phận trí thức chưa thật sự tâm huyết với nghề, ít đầu tư thời gian cho việc học tập, nghiên cứu nên còn chậm tiếp thu, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến vào công tác chuyên môn.

Như vậy, vấn đề thu hút đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đủ khả năng quản lý, quản trị, nghiên cứu và triển khai, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ cao... là một thách thức đặt ra cho trí thức tham gia phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cho phát triển đội ngũ trí thức nói riêng của tỉnh Lâm Đồng.

Tóm lại, trên cơ sở những điều kiện thuận lợi trong nước và trong tỉnh đã tạo cơ hội để trí thức có thể nâng cao trình độ chuyên môn, phát huy vai trò của mình cống hiến cho sự phát triển của tỉnh. Bên cạnh đó, việc đánh giá thực trạng cũng đã cho thấy, sự quan tâm của Đảng bộ tỉnh, chính quyền các cấp quản lý; cùng với sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của tỉnh nhà về mọi lĩnh vực phát triển kinh tế, phản biện xã hội, đóng góp vào việc hoạch định những chính sách phát triển kinh tế - xã hội…

Tuy nhiên, trên thực tế những đóng góp của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của họ, đồng thời chưa khai thác được triệt để những thuận lợi, những cơ hội mà bối cảnh đất nước và tỉnh đem lại. Bởi vậy, trong lúc này cần tiếp tục tìm ra những giải pháp mang tính đột phá góp phần phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

2.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2.4.1. Công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức trong giai đoạn hiện nay gắn với sự nghiệp phát triển của tỉnh nhà.

Thứ hai, nắm vững và quán triệt đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương về công tác xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, qua đó vận dụng sáng tạo vào địa phương, nghiên cứu và đề ra những chiến lược tổng thể phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức tỉnh, tăng cường nguồn lực đầu tư giáo dục - đào tạo; khoa học- công nghệ; chế độ chính sách trọng thưởng đặc biệt với trí thức; nguồn lực tài chính…, khuyến khích cho các đề tài dự án có chất lượng của trí thức đóng góp vào thực tiễn cho công cuộc phát triển của tỉnh Lâm Đồng.

2.4.2. Về chính sách đãi ngộ và tôn vinh trí thức

Thứ nhất, cần xây dựng chế độ lương, thưởng xứng đáng với công sức và trí tuệ của trí thức. Cần thiết phải thay đổi một cách căn bản chế độ đãi ngộ vật chất, làm cho tiền lương trở thành nguồn sống chính là tạo ra động lực chủ yếu để trí thức có thể đóng góp tích cực cho xã hội.

Thứ hai, xây dựng cơ chế tập hợp, phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức trong tỉnh và những chuyên gia đầu ngành là người Lâm Đồng đang công tác ở ngoài tỉnh tham gia xây dựng quê hương khắc phục tình trạng “chảy máu nguồn nhân lực” từ những địa bàn nông thôn, vùng núi, vùng khó khăn về các thị xã, thành phố; đồng thời tránh “chảy máu nhân lực” từ tỉnh ra các thành phố lớn hoặc đi nơi khác.

Thứ ba, xây dựng các quy định, quy chế về tôn vinh trí thức. Tùy theo mức độ cống hiến, công lao, thành tựu đạt được trong công tác, trong nghiên cứu khoa học, trong giáo dục và đào tạo… mà có những hình thức tôn vinh, khen thưởng tương xứng. Các hình thức tôn vinh phải thể hiện được văn hóa coi trọng hiền tài, tránh tôn vinh một cách hình thức.

2.4.3. Về điều kiện làm việc và môi trường làm việc đối với trí thức      

Thứ nhất, tạo môi trường dân chủ, tự do sáng tạo cho đội ngũ trí thức. Xây dựng cơ chế tự do tranh luận, thảo luận khoa học, trao đổi học thuật, phản biện xã hội; cơ chế dân chủ trong việc giao nhiệm vụ nghiên cứu cho các viện, trung tâm nghiên cứu thông qua tuyển chọn, đấu thầu công bằng, khách quan.

Thứ hai, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật tối đa nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp.

Thứ ba, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức làm việc và sinh hoạt như điều kiện đi lại, phương tiện làm việc, nhà công vụ... nhất là trí thức công tác nơi vùng sâu, vùng xa.

2.4.4. Về chính sách bố trí, sử dụng trí thức

Trong thời gian tới, tỉnh Lâm Đồng cần nghiên cứu, đổi mới chính sách trong việc tuyển dụng, bố trí và sử dụng trí thức nhằm đảm bảo sử dụng trí thức phải đúng năng lực và chuyên môn. Vì vậy, cần phải điều chỉnh lại quy trình đề bạt, bổ nhiệm cán bộ sao cho trí thức có điều kiện tham gia vào các vị trí khác nhau.

Để thu hút nhân tài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Lâm Đồng cần thực hiện theo Nghị định số 140/2017/NĐ-CP của Chính phủ ban hành về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Đồng thời xác định “Chúng ta tìm người tài, chứ không phải tìm người nhà”, có như vậy mới đảm bảo môi trường cạnh tranh thật sự dân chủ, công bằng, khách quan.

Kết luận

Lâm Đồng là một tỉnh miền núi, kinh tế phát triển chưa nhanh, muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa không còn con đường nào khác phải tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực, trong đó xây dựng và phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Dựa trên khái niệm và đặc điểm về đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng, nội dung bài viết chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa việc phát huy vai trò của ĐNTT với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh Lâm Đồng. Đánh giá được thực trạng phát huy vai trò của ĐNTT thông qua những chủ trương, chính sách của tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua, một mặt đã đem lại những kết quả nhất định biểu hiện là việc gia tăng về cả số lượng, chất lượng của ĐNTT và những đóng góp tích cực của họ trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên những đóng góp của ĐNTT trong thời gian qua còn chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới, điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Trong thời gian tới, tỉnh Lâm Đồng cần tiếp quán triệt quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác trí thức để vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn tại địa phương, đồng thời cần thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát huy hơn nữa tài năng và trí tuệ của ĐNTT tỉnh Lâm Đồng, qua đó góp phần hoàn thành thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước./.

Tài liệu tham khảo

[1] Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập, tập 3, Nxb. CTQG, Hà Nội.

[2] Từ điển Chủ nghĩa xã hội Khoa học (1996), Nxb, Sự thật, Hà Nội.

[3] Từ điển Triết học (1980), Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va.

[4] Tỉnh ủy Lâm Đồng (2018), Báo cáo tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 27- NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước”.

[5] Tỉnh ủy Lâm Đồng (2018), Kết luận Hội nghị tổng kết nghị quyết số 27- NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

[6] V.I. Lênin (1978): Toàn tập, tập 6, Nxb.Tiến Bộ Mát-xcơ-va.

 

Tin liên quan