PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG VỤ ĐÁP ỨNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI SỐ
VÀ HÀM Ý CHO TỈNH LÂM ĐỒNG
Ths. Nguyễn Thái Hòa
Giảng viên Trường Đại học Đà Lạt
Tóm tắt: Trước những yêu cầu ngày càng cao, toàn diện của hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, việc phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, có đầy đủ kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ đóng vai trò quyết định để nền hành chính công vụ ở nước ta, trong đó có tỉnh Lâm Đồng. Để quá trình chuyển đổi số thành công thì nhân tố quan trọng nhất, quyết định sự thành bại chính là nguồn nhân lực công vụ - lực lượng nòng cốt để vận hành Chính phủ số. Bài viết chỉ ra những nội dung cơ bản về quản trị nguồn nhân lực công vụ đáp ứng hội nhập quốc tế và chiến lược chuyển đổi số mà Việt Nam cũng như tỉnh Lâm Đồng đang triển khai thực hiện.
Từ khóa: Chuyển đổi số, hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực công vụ, Lâm Đồng
1. Bức tranh chung về nguồn nhân lực với hội nhập quốc tế ở khu vực công
Thế giới đang ở những bước quan trọng trong hội nhập quốc tế toàn diện, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam cũng không ngoại lệ, nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức rất lớn trong việc tạo ra thế với lực của quốc gia trong bối cảnh mới. Hội nhập quốc tế đã khiến thế giới thu hẹp về cả khoảng cách địa lý, không gian và thời gian đòi hỏi các quốc gia không chỉ thực hiện mở rộng quan hệ giao thương, tham gia hợp tác quốc tế mà còn cần chủ động đóng góp tích cực vào các cơ chế hợp tác, bộ quy tắc ứng xử trên bình diện chung của các quốc gia thành viên. Việt Nam thời gian qua cũng từng bước đẩy mạnh quá trình đó thông qua các mối liên kết trong quan hệ hợp tác cả song phương và đa phương. Chính phủ kiến tạo đã tăng cường tiếp cận liên ngành, đa lĩnh vực, liên khu vực quốc tế bắt kịp xu thế khách quan toàn cầu. Đây chính cũng là một trong những vấn đề then chốt của chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế bền vững và sáng tạo, tác động mọi mặt đời sống xã hội, từ tư duy kinh tế, phát triển và cách thức quản trị kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Trước tình hình mới, nguồn nhân lực trong khu vực công cần đáp ứng những yêu cầu cụ thể về cả năng lực, trình độ, phẩm chất và kỹ năng thực thi nhiệm vụ.
Thứ nhất, về kỹ năng công vụ trong nền hành chính công hội nhập. Trong môi trường công vụ quốc tế, người cán bộ, công chức cần trang bị những kỹ năng cơ bản về phân tích, dự báo, tư duy chiến lược, làm việc nhóm và ra quyết định. Những kỹ năng này giúp đội ngũ cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ của mình có được tầm nhìn dài hạn, tư duy sâu rộng, đáp ứng được những yêu cầu trong tình hình mới, trở thành đội ngũ nhân lực trong nền công vụ hiện đại, đáp ứng những yêu cầu của hiện tại và cả tương lai.
Thứ hai, về phẩm chất đạo đức. Hội nhập quốc tế mang lại cả những điểm tích cực và hạn chế cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phát triển con người là yếu tố then chốt cho sự thắng lợi của sự nghiệp phát triển quốc gia. Con người Việt Nam phải đáp ứng được những tiêu chuẩn của “công dân toàn cầu” hội nhập quốc tế là con người có tri thức, tôn trọng luật pháp quốc tế. Bên cạnh những giá trị quan trọng về mở rộng ngoại thương, tăng trưởng kinh tế, việc giao thoa quan hệ giữa các quốc gia trong nền kinh tế thị trường cũng mang lại một số hạn chế nhất định trong đó phải kể đến vấn đề về biến đổi, suy thoái phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong khu vực công. Cơ chế thị trường yêu cầu người cán bộ, công chức, viên chức phải thực sự giữ vững phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trung thành cống hiến cho tổ quốc.
Trong kỷ nguyên công nghệ số, mọi cá nhân đều có thể tiếp cận rất nhiều luồng thông tin từ không gian mạng và nếu không sử dụng có chọn lọc, họ rất dễ hiểu sai bản chất vấn đề và bị lôi kéo, dụ dỗ bởi các tổ chức phản động. Các thế lực thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước ta giờ đây lợi dụng không gian mạng để chiến đấu vô cùng phức tạp, tinh vi, chúng coi đây là trận địa quan trọng hơn cả những cuộc đấu tranh vũ trang, bạo động. Họ lôi kéo đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, thậm chí cả những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đang làm việc trong bộ máy quản lý nhà nước. Để làm được điều đó, các thế lực thù địch sử dụng vật chất thông qua các hình thức biếu tặng, tài trợ… và nếu đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức không có bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu đi sự liêm chính, trung thực, khách quan, tận tụy, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, bảo vệ đất nước… thì rất dễ lung lay trước các thế lực phản động.
Thứ ba, về trình độ, năng lực chuyên môn. Để đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng, bản thân đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cần có khả năng dự báo, tư duy dài hạn. Họ cần được trang bị những kinh thức rộng đa ngành về tình hình và luật pháp quốc tế, thường xuyên nắm bắt thông tin về kinh tế, chính trị, xã hội thế giới phục vụ hoạt động chuyên môn của mình. Những kiến thức chung thoạt nhìn có thể không liên quan trực tiếp đến hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ nhưng trong một thế giới phẳng, mọi yếu tố thông tin đều có giá trị và sẽ giúp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có một hành trang đủ tốt để xử lý với những biến số thay đổi nhanh chóng từ xã hội. Bên cạnh đó, sự hiểu biết đa lĩnh vực đặc biệt là về văn hóa và ngoại ngữ sẽ giúp nguồn nhân lực công vụ của nước ta đáp ứng được những yêu cầu trong giao tiếp, hoạt động thực hiện chuyên môn trong môi trường làm việc quốc tế. Những kiến thức này có thể được trau dồi, cập nhập thường xuyên qua sách vở, khóa học, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, hội nghị, hội thảo thậm chí trong kỷ nguyên số như hiện nay, thông tin tri thức hoàn toàn có thể lấy và chọn lọc kỹ càng từ nền tảng không gian mạng, thư viện số…
2. Chiến lược chuyển đổi số tại Việt Nam và những dấu hiệu chuyển đổi số tích cực tại tỉnh Lâm Đồng
2.1. Chiến lược chuyển đổi số của Việt Nam
Chuyển đổi số chính là xu thế chung của hầu khắp các quốc gia trong những năm gần đây khi chứng kiến giai đoạn phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thành quả công nghệ từ Cuộc cách mạng công nghiệp này bao gồm nền tảng internet vạn vật (Internet of Things), dữ liệu lớn (Big data), trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence), điện toán đám mây (Cloud computing) và công nghệ chuỗi khối (Blockchain). Những đột phá công nghệ này tác động toàn diện đến thế giới đương đại, nó đã vẽ lại bản đồ kinh tế thế giới, với sự suy giảm quyền lực của các quốc gia dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo. Theo nghiên cứu của Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Khối thịnh vượng chung của Úc (CSIRO’s Data61) dự báo, “GDP Việt Nam có thể tăng thêm khoảng 162 tỷ USD trong 20 năm nếu chuyển đổi nền kinh tế số thành công”. Còn theo báo cáo nghiên cứu của Google, Temesak và Bain Company công bố, “nền kinh tế số của Việt Nam đạt quy mô khoảng 3 tỷ USD năm 2015, tăng lên 9 tỷ USD vào năm 2018 và dự báo đạt 30 tỷ USD vào năm 2025”.
Sớm nhìn nhận được tầm quan trọng của quá trình chuyển đổi số, Chính phủ Việt Nam thể hiện tầm nhìn đúng đắn cũng như chiến lược khôn khéo với mục tiêu đưa Việt Nam tham gia và bắt kịp xu thế thời đại. Cụ thể, Bộ Chính trị ban hành quyết định số 52 thực hiện chủ động tham gia vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành quyết định số 749 ngày 03/06/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2030. Theo Nghị quyết 52, “Nhà nước nhấn mạnh nhiệm vụ cốt lõi là phát triển kinh tế số với mục tiêu chủ đạo: kinh tế số chiếm 20% GDP vào năm 2025 và chiếm 30% GDP vào năm 2030”. Chính phủ cũng đề cao đổi mới tư duy, nhận thức và vai trò lãnh đạo của Đảng kết hợp hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách tạo động lực mạnh mẽ tham gia công cuộc CMCN 4.0 và quá trình chuyển đổi số.
Chiến lược chuyển đổi số trong bối cảnh hiện nay cũng được Đảng và Nhà nước ta thể hiện nhất quán trong toàn bộ hệ thống chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Theo đó, chuyển đổi số được nhận định là xu thế tất yếu, là điệu kiện bắt buộc và quyết định cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Quá trình chuyển đổi số cần phải được chú trọng và đẩy nhanh tiến độ nhằm bắt kịp xu thế thời đại. Thông qua Đại hội XIII, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa các mục tiêu phát triển kinh tế trong giai đoạn tiếp theo. Cụ thể, “GDP bình quân đầu người đạt 4700- 5000 USD/ năm vượt mức các quốc gia có thu nhập trung bình thấp năm 2025 và đạt 7500 USD/năm vào năm 2030. Đặc biệt, đến năm 2045 – nhân dịp kỉ niệm 100 năm thành lập nước, Đảng và Nhà nước đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập cao với mức GDP/ người vượt ngưỡng 12,535 USD/năm”.
Để hoàn thành mục tiêu đó, Đại hội XIII cho rằng cần chú trọng xây dựng nhóm giải pháp thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số trên nền tảng đổi mới sáng tạo và khoa học – công nghệ. Đây được coi là hai tiêu chí then chốt trong quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế và đảm bảo công bằng tiến bộ xã hội trong bối cảnh hiện nay. Chuyển đổi số cũng được nhiều quốc gia trên thế giới nhận định là một nhân tố quan trọng tạo nền sự phát triển vượt trội về chất lượng, năng suất lao động và nâng cao vị thế cạnh tranh quốc gia trên thị trường thương mại quốc tế. Chính phủ Việt Nam cũng đổi mới toàn diện về cả tư duy và hành động, nắm bắt thời cơ một cách chủ động và tận dụng tối đa thành quả từ Cách mạng công nghiệp 4.0 và cơ hội đến từ hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, tạo tiền đề cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy số hóa mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Chương trình chuyển đổi số được triển khai theo ba trụ cột chính: Chính phủ số - kinh tế số - xã hội số. Cụ thể mục tiêu đến năm 2025: “Chính phủ số đạt 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, hồ sơ điện tử được triển khai ở các cấp (90% đối với cấp Bộ, cấp tỉnh, 80% đối với cấp huyện và 60% với cấp xã), 100% cơ sở dữ liệu quốc gia được hoàn thành, 50% hoạt động kiểm tra trực tuyến và Việt Nam thuộc nhóm 70 quốc gia dẫn đầu về Chính phủ điện tử; Kinh tế số chiếm 20% GDP, năng suất lao động tăng 7%, Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin, chỉ số cạnh tranh và thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo; Xã hội số phủ sóng hạ tầng cáp quang khắp cả nước (80% hộ gia đình, 100% xã), phổ cập mạng di động 4G/5G, đạt trên 50% thanh toán điện tử, Việt Nam thuộc nhóm 30 quốc gia dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng”.
Căn cứ vào ba trụ cột là Chính phủ số - kinh tế số - xã hội số cùng với bối cảnh “cú huých” trăm năm cho chuyển đổi số - đại dịch Covid-19, Chính phủ Việt Nam đề ra chương trình chuyển đổi số quốc gia như sau:
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp
Theo Chương trình này, có 6 lĩnh vực được kỳ vọng sẽ thay đổi hoàn toàn diện mạo sau “cú huých” đại dịch Covid 19 như: mua sắm trực tuyến, giáo dục trực tuyến, làm việc trực tuyến, các phương tiện lái tự động, y tế từ xa, tổ chức các sự kiện ảo trên không gian mạng toàn và ngành công nghiệp. Có thể thấy, điểm chung duy nhất của sáu lĩnh vực này chính là áp dụng mạnh mẽ công nghệ số nhằm tạo ra sự vượt trội trong tăng trưởng kinh tế, xây dựng vị thế cạnh tranh, cải thiện đời sống người dân. Đồng thời, nhiệm vụ thúc đẩy công nghệ số cũng được khẳng định quyết liệt tại Chiến lược phát triển kinh - xã hội 2021 - 2030 trong Văn kiện Đại hội XIII, đặc biệt các lĩnh vực tiên phong như quản trị số, xây dựng, cập nhật hệ thống dữ liệu.
Phát biểu tại Hội nghị và Triển lãm thế giới số 2021, Thủ tướng Chính phủ khẳng định Việt Nam đề cao vai trò hạ tầng số, dữ liệu, các nền tảng số quốc gia và không ngừng nỗ lực đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số quốc gia. Cùng với đó, với chủ đề “Chung tay xây dựng thế giới số”, thủ tướng cũng nhấn mạnh đại dịch Covid-19 đem lại những thời cơ thay đổi về phong cách quản trị, về khả năng thích ứng và xoay chuyển vận mệnh nước nhà.
Triển khai theo nền tảng đường lối chiến lược của Đảng, các bộ, ban, ngành không ngừng triển khai ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, nền tảng số vào quảng bá thương hiệu, xúc tiến thương mại, đưa thương hiệu Việt phủ sóng năm châu đặc biệt là chiến lược thị trường xuất khẩu ngay tại “nhà”. Một ví dụ cụ thể, “Bộ Công Thương kết hợp các đối tác liên quan đã triển khai tổ chức hơn 500 hội nghị xúc tiến thương mại theo phương thức trực tuyến vào năm 2020”. Nhờ vậy, hơn 1 triệu phiên giao dịch thương mại trực
tuyến được diễn ra với quy mô toàn cầu. Từ đây có thể thấy, hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đã và đang nỗ lực không ngừng đưa Việt Nam nhập cuộc và đột phá vượt trội trong công cuộc chuyển đổi số. Cuối cùng, Đảng và Nhà nước khẳng định, chuyển đổi số là con đường đúng đắn và thiết yếu trong quá trình phát triển, đảm bảo sức khỏe và an toàn người dân, hướng tới mục tiêu bền vững.
Việc thúc đẩy hạ tầng thông tin, kinh tế số, xã hội số có thể coi là động lực tăng trưởng kinh tế lớn nhất cho Việt Nam trong nhiều thập niên tới, giúp chúng ta giải quyết bài toán năng suất lao động thấp, đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Do đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng lựa chọn chuyển đổi số toàn diện, xây dựng hạ tầng số, phục vụ cho kinh tế số là một lựa chọn đúng đắn.
Để hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng trong những năm tới bao gồm 03 hạng mục chính: Hạ tầng và dịch vụ số bao gồm hạ tầng cứng và mạng lưới viễn thông làm nền tảng để tạo ra hạ tầng mềm là dịch vụ số giúp tối ưu các hoạt động của nền kinh tế; tài nguyên số bao gồm hệ sinh thái dữ liệu và tri thức mở có ích cho việc dự đoán kịp thời và ra quyết định mang lại hiệu quả kinh tế cao (như các cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp, tài chính, dân cư, quản lý đất đai...; các dịch vụ công trực tuyến…); chính sách chuyển đổi số, bao gồm các dịch vụ, chính sách chuyển đổi từ Chính phủ điện tử sang Chính phủ số, chính sách đào tạo nhân lực số chất lượng cao, chính sách đầu tư kinh doanh số, chính sách an toàn thông tin, chủ quyền số và sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đang dần tháo gỡ hệ thống chính sách quản lý trong lĩnh vực internet và không gian mạng. Sự chuyển đổi rất nhanh của các mô hình kinh doanh trong nền kinh tế số đã dẫn tới một số quy định pháp luật đã không theo kịp. Tiến tới định hình các tiêu chuẩn quốc tế và các quy tắc thương mại kỹ thuật số. Chính phủ nước ta đã mạnh dạn chấp nhận các mô hình kinh doanh mới, và các công nghệ mới làm thay đổi căn bản các ngành, gọi là X-Tech, như Fintech (Công nghệ tài chính), EduTech (Công nghệ giáo dục), AgriTech (Công nghệ nông nghiệp)... Năm 2019 chứng kiến dịch Covid-19 ảnh hưởng rất nặng nề đến nền kinh tế, ảnh hưởng ở tất cả mọi ngành nghề. Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, chính dịch Covid-19 lại đang thúc đẩy quá trình chuyển đổi số diễn ra nhanh hơn.
2.2. Dấu hiệu chuyển đổi số tích cực tại tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng là tỉnh có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số khá cao. Thời gian qua, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đã tập trung nhiều giải pháp phát triển vùng dân tộc thiểu số. Mặc dù năm 2021 đại dịch Covid-19 tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội của địa phương, Lâm Đồng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, vượt qua nhiều khó khăn thách thức để triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị. “Tăng trưởng kinh tế năm 2021 bằng bình quân chung cả nước, thu nhập bình quân đầu người đạt 67 triệu đồng/người/năm, thu ngân sách có nhiều nỗ lực…”.
Chuyển đổi số là một xu hướng, một yêu cầu tất yếu, một phương cách thích ứng trong thời đại công nghiệp 4.0 và bối cảnh dịch Covid-19 hiện nay. Qua đó, tạo ra và nâng tầm những giá trị cốt lõi, góp phần tác động tích cực vào sự thay đổi tư duy, nhận thức của người dân vùng Tây Nguyên, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong chuyển đổi số lĩnh vực nông nghiệp. Tỉnh Lâm Đồng có hai lĩnh vực chuyển đổi số mạnh mẽ là nông nghiệp và dịch vụ du lịch, ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao trong sản xuất nông nghiệp và quản lý điều hành.
Lâm Đồng nhiều nhiệm kỳ qua đã tập trung ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, được Trung ương đánh giá là tỉnh đứng đầu cả nước về ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao. Hiện nay, địa phương tiếp tục phát triển nông nghiệp thông minh - ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp. Thông qua chuyển đổi số góp phần nâng cao năng suất nông nghiệp, hướng đến phát triển nông nghiệp đa chức năng - phát triển nông nghiệp thông minh gắn với du lịch để tạo ra mô hình du lịch canh nông. Hiện nay Lâm Đồng là tỉnh đứng đầu cả nước về các mô hình du lịch canh nông thông qua quản trị, ứng dụng giải pháp công nghệ thông tin, tiếp cận Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để quản lý toàn diện, nhằm nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp gấp 3 lần so với nông nghiệp thông thường. “Tỉnh thực hiện rất nhiều ý tưởng trong canh tác, ứng dụng chuyển đổi số chiếm 48% - đây là xu hướng tiếp cận, trong đó trên 70% là thanh niên trẻ thực hiện ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp. Đây cũng là cơ hội tốt để các ý tưởng sáng tạo và chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, sản xuất, môi trường… sẽ tiếp tục thực hiện thời gian tới”.
Trường Đại học Đà Lạt là một trong những điển hình về đổi mới và ứng dụng công nghệ số trong giáo dục, chủ động kết nối các dự án giáo dục với công nghệ và đưa công nghệ số vào ứng dụng vào thực tế. Trường Đại học Đà Lạt đã phối hợp với huyện Lạc Dương trong việc triển khai dự án nghiên cứu về chuyển đổi số trong nông nghiệp tại huyện Lạc Dương. Trong đó, “dự án chú trọng việc xây dựng cơ sở dữ liệu lớn (Bigdata) trong nông nghiệp bao gồm: Điều kiện tự nhiên, diện tích và thời điểm canh tác, loại cây trồng, kỹ thuật canh tác, các chính sách nông nghiệp liên quan… nhằm dự đoán được sản lượng nông sản theo thời gian tương đối chính xác; Dự đoán được tình hình dịch bệnh; Hỗ trợ người nông dân trong quản lý dịch bệnh, tư vấn kỹ thuật trồng trọt, tư vấn đối tượng cây trồng; Hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ nông sản ngắn ngày. Sau khi kết quả của dự án được nghiệm thu và đưa vào triển khai thực hiện, sẽ giúp cho nông dân giảm thiểu sự lãng phí nhân công, nguyên vật liệu, tài nguyên đất đai, nước; giảm thiểu rủi ro đầu tư, hạn chế sự bất ổn giá cả vì khủng hoảng thừa sản phẩm, thị trường. Đặc biệt, đối với các nhà quản lý sẽ nắm chính xác thông tin, định hướng chiến lược phát triển; còn các nhà khoa học sẽ có số liệu chính xác phục vụ nghiên cứu; riêng các doanh nghiệp kinh doanh nông sản sẽ chủ động trong kế hoạch thu mua, tiêu thụ, chế biến…”.
Ngoài ra, năm 2021, thực hiện chủ đề “Chuyển đổi số trong Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam”, PC Lâm Đồng đã tiếp tục triển khai hiện đại hóa trong cung cấp dịch vụ điện theo hướng số hóa toàn bộ hoạt động kinh doanh và dịch vụ khách hàng. Quá trình chuyển đổi đã được đơn vị thực hiện trong nhiều năm qua và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, làm nền tảng để PC Lâm Đồng hoàn thành nhiệm vụ trong năm 2021. Đơn cử như năm 2018, PC Lâm Đồng đã hoàn thành tích hợp cung cấp dịch vụ điện trên Cổng dịch vụ công trực tuyến của tỉnh Lâm Đồng, cung cấp 14 dịch vụ điện tử cấp điện mới và dịch vụ trong quá trình sử dụng điện như thanh toán cho đến thanh lý, thay đổi thông tin… Đến năm 2019, Công ty tiếp tục cung cấp hợp đồng điện tử và tích hợp cung cấp tất cả các dịch vụ điện ở mức độ 4 trên Cổng dịch vụ công quốc gia. Trong năm 2020, PC Lâm Đồng ghi nhận “tỷ lệ giao dịch trực tuyến đạt gần 70% trên toàn bộ lượt giao dịch trong năm và tỷ lệ khách hàng chọn hình thức thanh toán online tăng trên 60%”. Đây cũng là một ghi nhận về thay đổi nhận thức, hành vi giao dịch của khách hàng.
Chuyển đổi số cũng góp phần cải thiện chỉ số PCI của tỉnh Lâm Đồng. “Trong 10 chỉ số thành phần của PCI năm 2021 so với năm 2020, Lâm Đồng có 5 chỉ số thành phần tăng điểm. Đây là những chỉ số có những thay đổi tích cực theo đánh giá của các doanh nghiệp. Đó là: Chỉ số Tiếp cận đất đai và ổn định trong “sử dụng đất đạt 7,28 điểm, tăng 0,34 điểm, giữ nguyên thứ hạng 20/63 tỉnh, thành - đây là mức điểm cao nhất trong 16 năm xếp hạng PCI của Lâm Đồng. Chỉ số tính năng động và tiên phong của chính quyền đạt 6,43 điểm, tăng 0,29 điểm, giảm 13 bậc và xếp ở vị trí 53/63 tỉnh, thành. Chỉ số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đạt 7,34 điểm, tăng 0,94 điểm, tăng 5 bậc và xếp ở vị trí 18/63 tỉnh, thành. Chỉ số đào tạo lao động đạt 6,53 điểm, tăng 0,73 điểm - chỉ số tuy không tăng nhiều điểm nhưng tăng 39 bậc và xếp ở vị trí 12/63 tỉnh, thành. Chỉ số thiết chế pháp lý và an ninh trật tự đạt 7,99 điểm, tăng 1,56 điểm - chỉ số tăng mạnh về điểm số và tăng vượt bậc về thứ hạng, cụ thể tăng 43 bậc và xếp ở vị trí 2/63 tỉnh, thành. Trong 5 chỉ số thành phần tăng điểm, có 2 chỉ số có trọng số 20%” (mức cao nhất) là Chỉ số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và Chỉ số đào tạo lao động, giúp đẩy tổng điểm của Lâm Đồng tăng lên.
3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực công vụ đáp ứng hội nhập quốc tế và hàm ý cho tỉnh Lâm Đồng
Thứ nhất, giải pháp hiệu quả trong ngắn hạn để phát triển nguồn nhân lực công vụ chính là tuyển nguồn nhân lực đang học tập và làm việc ở nước ngoài. Đây là đội ngũ nhân lực có tri thức cao do tiếp cận với nền giáo dục và môi trường làm việc quốc tế. Tuy nhiên trên thực tế, hầu hết việc thu hút và sử dụng nhóm nhân lực này chủ yếu được thực hiện ở khối các doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân trong khi muốn thực hiện thành công chiến lược chuyển đổi số đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa cả Nhà nước và doanh nghiệp. Cơ chế thị trường cũng mang lại những thách thức không nhỏ trong cạnh tranh thị trường lao động. Trong nền kinh tế thị trường, cá nhân người lao động đều mong muốn có thu nhập ổn định và làm giàu chính đáng. Trong khu vực công, mức lương và các khoản phụ cấp dù đã có nhiều cải thiện song chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao từ xã hội; môi trường làm việc chưa phát huy được sức sáng tạo và khả năng của công chức, viên chức nhất là những người có chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. “Trong khi đó, khu vực tư nhân và nước ngoài mở ra nhiều cơ hội hấp dẫn về việc làm, chế độ đãi ngộ, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Trong khu vực công cũng xuất hiện một bộ phận cán bộ công chức, viên chức lười làm, ỉ lại dẫn đến việc mất cân đối nguồn nhân lực công vụ, giảm chất lượng, lâm vào tình trạng “vừa thừa mà vừa thiếu”.
Thứ hai, Để thu hút được nhiều nhân lực chất lượng cao, nhân tài đến tham gia và làm việc cho khu vực công, tỉnh Lâm Đồng cần xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý, từ hệ thống tiền lương, thưởng, phụ cấp và các đãi ngộ phi vật chất khác. Đây là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng vì nếu chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng, công việc không vận dụng được hết kiến thức, kinh nghiệm họ tích lũy được trong quá trình học tập, làm việc thì sẽ khó lòng thu hút được đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Mặc dù vậy, xét trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, lương còn thấp do ngân sách còn nhiều hạn chế, nếu không có những chính sách thiết thực đặc biệt là về cơ hội, lộ trình thăng tiến rõ ràng để giữ chân người tài, thì họ sẽ dịch chuyển
sang làm việc tại các tổ chức ngoài Nhà nước với mức thu nhập và môi trường làm việc tốt hơn. “Kết nối, thu hút, trọng dụng lực lượng chuyên gia người Việt có chuyên môn đáp ứng chuyển đổi số hiện đang làm việc cho các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước hoặc đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài bằng các hình thức hợp tác, liên kết sẽ mang lại hiệu quả cao và tiết kiệm được chi phí. Việc tận dụng nguồn lực ở các khu vực này sẽ giảm gánh nặng biên chế cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời vẫn phát huy được nguồn nhân lực chất lượng cao cho các công việc cần thiết của khu vực công. Nhiều cường quốc trên thế giới rất coi trọng việc thu hút nguồn nhân lực số, đặc biệt là nhân tài từ nước ngoài về làm việc, có chế độ đãi ngộ đặc biệt (thu nhập cao, hỗ trợ nhà ở, không quản lý thời gian hành chính làm việc, địa lý làm việc mà chỉ cần đảm bảo kết quả, sản phẩm…) như Singapore, Mỹ, Nhật Bản…”.
Thứ ba, để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực công vụ trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ thì hệ thống giáo dục và đào tạo, nhất là các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, năng lực để nhanh chóng giúp đội ngũ nhân lực công vụ có khả năng thích ứng cao với cuộc Cách mạng Công nghiệp này là nền tảng, gốc rễ của phát triển nguồn nhân lực công vụ. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng cần gắn với các sản phẩm đột phá về công nghệ như Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, rô - bốt để đội ngũ cán bộ công chức được tiếp cận nhanh chóng với các sản phẩm công nghệ, vận dụng vào quá trình làm việc số, quản lý số, không bị “sốc” trước những tiến bộ của các sản phẩm công nghệ. Nguồn nhân lực công vụ đáp ứng chiến lược chuyển đổi số được hình thành và phát triển từ nhiều nguồn khác nhau nhưng hầu hết là từ hệ thống, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức, cán bộ. Đó là nơi họ được nâng cao, cải thiện trình độ, năng lực chuyên môn để trở thành các chuyên gia, nhà quản lý, đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp, có đủ năng lực thực hiện hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ và làm chủ công nghệ mới trong quá trình số hóa hoạt động quản lý công; có khả năng quản lý, đề xuất và tổ chức thực hiện những giải pháp nhằm giải quyết hiệu quả những vấn đề cơ bản trong hoạt động quản lý Nhà nước về mọi mặt đời sống xã hội. “Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cũng cần đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành với các tổ chức, cơ sở khác trên thế giới vì các khóa học, chương trình đào tạo tại các quốc gia phát triển, đặc biệt là những nước đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ hay khối các nước thuộc liên minh châu Âu sẽ giúp đội ngũ cán bộ, công chức nước ta nhanh chóng tiếp thu những tri thức mới nhất, công nghệ mới nhất để ứng dụng vào công việc tại cơ quan đơn vị. Đặc biệt, khuyến khích đội ngũ nhân lực trẻ trong khu vực vực công tích cực tham
gia các khóa đào tạo dài hạn có liên quan chặt chẽ đến khoa học công nghệ thông qua hỗ trợ tài chính, kinh phí đào tạo, học bổng”. Đào tạo, bồi dưỡng được xem là một giải pháp hiệu quả bậc nhất, mang tính lâu dài mà hầu hết các quốc gia trên thế giới, thậm chí là các quốc gia phát triển vẫn ưu tiên thực hiện. Bên cạnh giải pháp về đào tạo và bồi dưỡng, cần khắc phục hạn chế từ Ngân sách Nhà nước để tạo lập môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất cho đội ngũ nhân lực làm việc trong khu vực công. Vấn đề này không chỉ đóng tác động đến thu hút, tuyển dụng nhân tài mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giữ chân nhân tài đó làm việc lâu dài ở Việt Nam và tỉnh Lâm Đồng.
Thứ tư, tỉnh Lâm Đồng cần xây dựng chính sách đãi ngộ đa dạng, hợp lý để đội ngũ công chức, viên chức bảo đảm được đời sống ở mức trung bình khá trong xã hội. Các chính sách được ban hành cần đồng bộ với nhau từ việc thu hút, tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp việc làm, đánh giá thi đua, khen thưởng… để khuyến khích, giữ chân lực lượng nhân lực làm việc trong khu vực công. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức như: tiêu chuẩn về ngạch công chức, vị trí việc làm, nâng ngạch…; cơ chế loại bỏ, kỷ luật những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật… để đảm bảo sự công bằng, khách quan giữa người làm được việc và người không làm được việc.
Thứ năm, Lâm Đồng cần thu hút, sư dụng cán bộ, công chức đúng với chuyên môn, năng lực để các cá nhân có thể được phát huy hết khả năng, năng lực, kiến thức, giá trị của bản thân. Xây dựng môi trường làm việc lý tưởng để thu hút được nhiều hơn nhân tài vào làm việc trong khu vực công vì môi trường làm việc sáng tạo, phương tiện làm việc hiện đại, thông tin công việc minh bạch, công khai, đầy đủ sẽ khiến cho các cá nhân làm việc trong điều kiện đó cống hiến hơn trong công việc, giữ họ làm việc, gắn bó lâu hơn với tổ chức. Thực hiện tốt chính sách tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác, coi đây là công cụ quan trọng để thu hút người có năng lực, trình độ chuyên môn cho khu vực công và khuyến khích họ yên tâm cống hiến cho công việc. Tiền lương phải tương xứng với mức độ cống hiến, trách nhiệm công việc, phải trở thành động lực nâng cao hiệu quả công việc, động lực để đội ngũ cán bộ công chức có ý thức liên tục nâng cao trình độ, kỹ năng công việc.
Thứ sáu, để Lâm Đồng tiếp tục phát triển chuyển đổi số trong nông nghiệp thông minh trong giai đoạn tới, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng để các thành phần kinh tế và doanh nghiệp, người dân thấy được hiệu quả từ chuyển đổi số, đặc biệt giảm chi phí lao động, tăng hiệu quả kinh tế. Qua đó, góp phần thích ứng với biến đổi khí hậu và dịch bệnh, thiên tai, nhất là ảnh hưởng của dịch COVID-19 diễn biến khó lường, phức tạp. Tiếp tục đẩy mạnh đề án khởi nghiệp sáng tạo sẽ tạo động lực cho thế hệ trẻ tiếp tục nghiên cứu và để hình thành nhiều dự án trong nông nghiệp, chuyển đổi số trong nông nghiệp và không chỉ dừng lại ở cấp tỉnh mà phải nâng tầm lên cấp quốc gia, cấp quốc tế.
Thứ bảy, các cấp ủy Đảng cần coi chuyển đổi số là nhiệm vụ chính trị để tập trung chỉ đạo sơ kết, tổng kết, đánh giá về việc ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp, một ngành có lợi thế chủ lực của tỉnh Lâm Đồng để chỉ đạo định hướng phát triển nông nghiệp thông minh, ứng dụng chuyển đổi số thành công, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Từ những kết quả đạt được, Lâm Đồng đã khẳng định được ưu thế của một nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Thứ tám, chủ động tổ chức và tích cực tham gia các hội thảo khoa học, tọa đàm khoa học liên quan đến các nội dung chuyển đổi số. Việc tổ chức các hội thảo và tọa đàm có ý nghĩa quan trọng, tác động lớn đến nhận thức, trách nhiệm của mỗi người dân, doanh nghiệp, mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình chuyển đổi số đối với sự phát triển chung của đất nước, của tỉnh Lâm Đồng./.
Tài liệu tham khảo
Tiếng việt
1. Ban chỉ đạo 35 Bộ Công Thương (2021), Đổi mới phương thức hoạt động xúc tiến thương mại góp phần hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, truy cập tại trang: https://moit.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/doi-moi-phuong-thuc-hoat-dong-xuc-tien-thuong-mai-gop-phan-h.html.
2. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
3. ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
4. Lê Hoa (2022), “Nâng hạng PCI là nỗ lực cải thiện về ''chất'' năng lực điều hành kinh tế”, trang web: http://www.baolamdong.vn/kinhte/202205/nang-hang-pci-la-no-luc-cai-thien-ve-chat-nang-luc-dieu-hanh-kinh-te-3118071/ (truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2022).
5. PGS.TS. Vũ Tuấn Hưng, Ths. Nguyễn Xuân Bắc (2022). “Phát triển nguồn nhân lực công vụ đáp ứng hội nhập quốc tế, chuyển đổi số và hàm ý cho tỉnh Bình Dương”. Kỷ yếu hội thảo “Tình Bỉnh Dương chặng đường ¼ yhe61 kỷ: thành tựu và triển vọng”, trang 13.
6. Tuấn Hương (2022), “Chuyển đổi số để phát triển bền vững kinh tế nông nghiệp vùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên”, trang web: http://www.baolamdong.vn/chinhtri/202204/chuyen-doi-so-de-phat-trien-ben-vung-kinh-te-nong-nghiep-vung-dong-bao-cac-dan-toc-tay-nguyen-3110544/ (truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2022).
7. Hoàng Sa (2021), “Chuyển đổi số ở ngành điện Lâm Đồng”, trang web: http://www.baolamdong.vn/kinhte/202108/chuyen-doi-so-o-nganh-dien-lam-dong-3071174/, (truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2022).
8. Nguyệt Thu (2022), “Chuyển đổi số ''bứt phá'' để phát triển kinh tế - xã hội”, trang web: http://www.baolamdong.vn/bao-xuan-2022/202202/chuyen-doi-so-but-pha-de-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-3101518/, (truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2022).
9. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg về Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Tiếng Anh
1. CSIRO’s Data61 (2019), Vietnam’s Future digital economy, towards 2030 and 2045.
2. Google, Temasak & Bain Company, The e-Conomy SEA 2020 report.
3. United Nation (2014), E-Government survey 2014 – E-Government for the future we want.
Online: 2
Ngày: 785Tháng: 8838
Tổng: 771588